- Đợt thứ nhất: Bón vào đầu mùa mưa (tháng 4 đến tháng 5), dùng 35% lượng đạm, 30% lượng Kali.
- Đợt thứ hai: Bón vào giữa mùa mưa (tháng 7 đến tháng 8), dùng 40% lượng đạm, 40% lượng Kali, 40% lượng lân.
- Đợt thứ ba: Bón vào cuối mùa mưa (tháng 10-11), dùng 25% đạm, 60% lân, 30% Kali.
Phương pháp bón: Cuốc hốc xung quanh tán lá sâu 5-10cm, bón phân và lấp đất lại.
Chú ý:
- Riêng phân lân dùng để bón lót khi trồng mới và bón thúc vào đợt 2, đợt 3 theo phương pháp cuốc hốc xung quanh tán lá.
- Khi sử dụng hệ thống bón phân qua đường ống, lượng phân Urê và Kali của mỗi đợt bón có thể chia làm 5-6 lần để bón qua hệ thống ống tưới với chu kỳ 10 ngày/lần.
- Phải bổ sung lượng phân khoảng 15-20% so với tổng lượng phân bón trong năm để phục hồi sinh trưởng đối với vườn cà phê cho năng suất cao, tránh tình trạng suy kiệt cây, làm giảm năng suất trong vụ sau.
III. TƯỚI NƯỚC
3.1. Thời kỳ kiến thiết cơ bản
a. Phương pháp tưới truyền thống
Chu kỳ tưới: 5-6 ngày/lần
Lượng nước tưới: 100-150 lít/cây/lần
b. Phương pháp tưới nước tiết kiệm
Chu kỷ tưới: 2 ngày/lần
Lượng nước tưới: 20-30 lít/cây/lần.
3.2. Thời kỳ kinh doanh
Thời điểm tưới nước lần đầu được xác định khi mầm hoa đã phát triển đầy đủ (hoa có hình mỏ sẻ màu xám xanh), vào thời điểm sau khi thu hoạch 2-2,5 tháng.
- Phương pháp tưới truyền thống (tưới bồn)
Sau khi tưới lần đầu tiến hành tưới theo chu kỳ 10 ngày/lần đối với đất đỏ bazan, 7 ngày/lần đối với đất nâu và đất đen có sỏi cơm. Lượng nước tưới 200-250 lít/cây.
- Phương pháp tưới nước tiết kiệm (hệ thống tưới tự động)
Sau khi tưới lần đầu, tiến hành tưới theo chu kỳ 2 ngày/lần, lượng nước tưới khoảng 20-25 lít/cây.
Chú ý: Tùy theo tình trạng cây, độ ẩm đất để điều chỉnh lượng nước tưới cho phù hợp.
IV. TẠO HÌNH
4.1. Nuôi đa thân
Ở Đồng Nai, các nhà vườn thường áp dụng phương pháp này giữ lại mỗi gốc 3 thân phân đều xung quanh. Phương pháp này có nhược điểm là chu kỳ kinh tế ngắn (5 - 7 năm). Để khắc phục nhược điểm trên, có thể phối hợp với biện pháp nuôi thêm thân (cành vượt), thay thế những thân chính có hiện tượng tán dù. Chọn chồi khoẻ ở phần gốc, sau thu hoạch cần cưa bỏ thân đã có hiện tượng tán dù giúp cho chồi non phát triển.
4.2. Tỉa cành
Thường xuyên tỉa bỏ những chồi vượt, những cành bị sâu bệnh gây hại, những cành đã ra quả ở những năm trước chỉ còn 2-3 cặp lá ở đầu cành.
4.3. Cưa đốn phục hồi kết hợp với ghép cải tạo giống
Những vườn cà phê đã già cỗi, cho năng suất thấp thì cưa đốn phục hồi vào cuối mùa thu hoạch trái. Vị trí cưa: cách gốc 20-30 cm, giữ lại mỗi gốc 3 chồi tốt nhất phân bố đều quanh gốc. Sau đó dùng phương pháp ghép cành để ghép thay thế những cây cho năng suất thấp bằng giống cà phê cho năng suất, chất lượng cao.
V. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH
Chủ yếu phòng ngừa là chính, gồm các biện pháp như: tỉa cành tạo tán cho cây thông thoáng, làm rãnh thoát nước, tưới nước tiết kiệm, sử dụng phân chuồng hoai trộn nấm Trichoderma, bón phân cân đối, quét vôi quanh gốc,...
1. Bệnh hại
1.1 Bệnh lở cổ rễ (bệnh chết rạp - Rhizoctonia solani)
a) Triệu chứng
- Nấm xâm nhập vào cổ rễ giáp mặt đất, trên vỏ có vết nâu. Sau đó, vết nâu lan rộng bao quanh cổ rễ, vỏ gốc bị thối bong ra để trơ phần gỗ. Nấm dần dần ăn sâu vào trong làm cổ rễ bị teo, khô thắt lại.
- Lá cây bị vàng héo, toàn cây chết khô.
b) Điều kiện phát sinh phát triển
- Bệnh do nấm Rhizoctonia solani gây ra. Thường gây hại cà phê trong vườn ươm và thời kỳ kiến thiết cơ bản. Bệnh xuất hiện nhiều ở vườn đất bị đóng váng, không được xới xáo trong điều kiện nắng nóng sau những cơn mưa lớn.
- Hạch nấm sống hàng năm trong đất, gặp điều kiện thuận lợi mọc ra sợi nấm để xâm nhập gây bệnh.
- Bệnh phát triển mạnh trong mùa mưa, khi ẩm độ trong vườn cao.
c) Phòng trừ
- Đào bỏ cây bị bệnh nặng, thu gom hết rễ và đốt tiêu hủy. Trước khi trồng cây khác, lấy rác đốt trong lòng hố, bón nhiều phân hữu cơ và 0,5 kg vôi bột cho một hố.
- Tăng cường chăm sóc, xới xáo phá váng, tăng cường bón phân hữu cơ hoai mục, bón cân đối NPK, nếu đất chua cần bón thêm vôi.
- Trong mùa mưa không xới xáo làm đứt rễ, không để vườn đọng nước. Mùa khô cần tủ gốc giữ ẩm. Cắm cọc giữ cây con không để gió lay gốc mạnh.
- Sớm phát hiện cây mới chớm bệnh để kịp thời phun hoặc tưới thuốc vào gốc phòng trị: Trichoderma spp (TRICÔ-ĐHCT108 bào tử/g ), Miksabe 100WP, Biobus 1.00WP, Valijapane 3SL; 5SL, Sông Lam 333 50EC
1.2 Bệnh đốm mắt cua (Cercospora coffeicola)
a) Triệu chứng
- Trên lá: bệnh phát triển từ những đốm chấm xám, hình tròn, xung quanh viền nâu vàng, vết bệnh già có các đường tròn đồng tâm. Nhiều vết bệnh liên kết thành mảng cháy lớn trên phiến lá, bệnh làm lá vàng và rụng.
- Trên quả cà phê, có những đốm màu xám đậm, vỏ quả bị khô cứng, màu đen, nhăn nhúm và rụng sớm.
Cây bị bệnh sinh trưởng kém, giảm năng suất và phẩm chất hạt.
b) Điều kiện phát sinh phát triển
- Do nấm Cercospora coffeicola gây hại. Nấm tồn tại trên tàn dư cây bị bệnh dưới dạng sợi và phân sinh bào tử, sang năm sau các bào tử mới hình thành phá́t triển lây nhiễm. Cây chăm sóc kém và ở ngoài nắng thường bị nặng hơn.
- Bệnh phát sinh trên cây con ở vườn ươm và cây lớn.
c) Phòng trừ
- Dọn sạch cỏ dại, tỉa cành tạo sự thông thoáng, tiêu hủy cành lá bệnh và tàn dư thực vật.
- Cung cấp đầy đủ và cân đối NPK. tăng cường bón phân hữu cơ hoai mục.
- Tưới đủ nước cho cây vào mùa khô.
- Phát hiện bệnh sớm, dùng thuốc sau để phòng trừ : Dibazole 10SL và các hợp chất chứa đồng.
1.3 Bệnh khô cành, khô quả (bệnh thán thư - Colletotrichum coffeanum).
a) Triệu chứng
- Trên lá: vết bệnh lúc đầu là những đốm tròn màu nâu, sau lan rộng ra chuyển màu nâu xám, có các vòng đồng tâm màu nâu đậm. Các vết bệnh liên kết nhau thành mảng khô trên phiến lá hoặc dọc theo mép lá.
- Trên quả: nấm bệnh tấn công trên quả 6-7 tháng tuổi, tạo những đốm nâu lõm vào phần vỏ quả, quả khô đen và rụng sớm.
- Trên cành: có những vết nâu lõm xuống làm vỏ biến màu nâu đen và khô dần. Trường hợp bệnh nặng nấm xâm nhập trên cả cành lớn, lan cả thân làm rụng lá và cành trơ trụi, khô đen.
b) Điều kiện phát sinh phát triển
- Bệnh do nấm Colletotrichum coffeanum (hoặc C. gloeosporioides) gây hại. Nấm phát triển thích hợp ở nhiệt độ 23-25oC.
- Bệnh thường phát sinh gây hại từ giai đoạn cà phê ra hoa đến khi quả già, trời ẩm thấp, mưa nhiều, bệnh nặng ở những vườn cà phê chăm sóc kém, thiếu phân bón.
c) Phòng trừ
- Bón phân đầy đủ, cân đối N, P, K có tác dụng hạn chế bệnh.
- Cắt tỉa những cành lá bị hại nặng đem tiêu hủy.
- Trồng cây che bóng hợp lý cũng hạn chế được bệnh.
- Dùng các thuốc sau đây phòng trừ: Niclosat 2SL, Trichoderma spp. , Carban 50SC, KocideÒ 53.8 DF, Manozeb 80 WP.
1.4 Bệnh rỉ sắt (Hemileia vastatrix)
a) Triệu chứng
- Bệnh gây hại chủ yếu trên lá. Triệu chứng điển hình là mặt dưới lá xuất hiện những đốm bệnh tròn, lúc đầu nhỏ, về sau lớn dần, đường kính trung bình 2-3 mm, trên đốm bệnh phủ một lớp bột phấn màu vàng da cam chính là các bào tử nấm bệnh. Mỗi đốm có thể khoảng 200.000 bào tử. Trên một lá có nhiều đốm bệnh, một số đốm liên kết nhau tạo thành đốm bệnh lớn.
- Lá bị biến vàng, rụng hàng loạt, cành khô, cây sinh trưởng kém, giảm năng suất.
b) Điều kiện phát sinh phát triển
- Do nấm Hemileia vastatrix gây ra. Đây là bệnh nghiêm trọng gây hại ở tất cả các vùng trồng cà phê ở Việt Nam.
- Bào tử nẩy mầm thích hợp ở nhiệt độ từ 20-25oC. Bào tử phát tán trong không khí nhờ gió, nước, côn trùng, người đi lại chăm sóc. Ở miền Nam, bệnh thường phát triển mạnh và nặng ở các tháng 10 - 12. Các giống cà phê chè và cà phê vối bị nhiễm bệnh này nặng, cà phê mít bị nhiễm bệnh ở mức độ trung bình.
- Bệnh rỉ sắt phát triển mạnh trong mùa mưa, vườn nhiều cây che bóng cũng là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển.
c) Phòng trừ
- Trồng giống kháng bệnh.
- Tỉa cành cho cây thông thoáng, vệ sinh vườn cà phê, làm cỏ sạch, tiêu hủy tàn dư thực vật, cành lá bị bệnh để hạn chế sự lây lan và phát triển của bệnh.
- Chăm sóc và bón phân đầy đủ.
- Phun thuốc vào giai đoạn bệnh rỉ sắt chớm xuất hiện, phun lại khi điều kiện khí hậu thích hợp cho bệnh phát triển, phun ướt đều cả hai mặt lá, bệnh nặng phun lần 2 cách lần đầu 5-7 ngày.
Các nhóm thuốc sử dụng: Viben-C 50BTN, Binhnomyl 50 WP, Vectra 200EC, Do.One 250SC, Carzole 20WP.
1.5 Bệnh nấm hồng (Corticium salmonicolor)
a) Triệu chứng
- Bệnh gây hại chủ yếu trên cành, nơi phân cành giáp với thân. Nơi bị bệnh có một lớp bột màu hồng nhạt, rất mịn, đó là các bào tử nấm bệnh. Vết bệnh lớn dần chạy dọc theo cành và bao hết chu vi cành. Khi vết bệnh đã cũ thì chuyển sang màu trắng xám.
- Lá trên cành nhiễm bệnh bị úa vàng, quả và lá bị rụng. Nếu bị nặng, cành chết khô.
b) Điều kiện phát sinh phát triển
- Do nấm Corticium salmonicolor gây ra. Bệnh thường xuất hiện khi ẩm độ cao, mưa và nóng (tháng 7-10), vườn cây rậm rạp.
c) Phòng trừ
- Thường xuyên cắt bỏ những cành bị bệnh nặng tiêu hủy.
- Dọn sạch cỏ dại, tỉa cành tạo sự thông thoáng cho cây.
- Bón cân đối NPK và tăng cường bón phân hữu cơ hoai mục.
- Khi bệnh mới phát sinh dùng các nhóm thuốc sau để phòng trừ: Trichoderma spp., Genol 0.3 DD, (1.2DD), Anvil 5 SC, Anwinnong 50SC, (100SC,) Carzole 20WP, Champion 77WP, DuPontTM KocideÒ46.1WG, (53.8WG) Funguran - OH 50WP
1.6 Bệnh thối rễ tơ cà phê
Bệnh do tổ hợp nấm Rhizoctonia sp.; Fusarium sp.; Pythium sp. gây ra
a) Triệu chứng
Cây bị bệnh chậm phát triển, lá vàng dần, rễ tơ bị thối đen từ chóp rễ vào. Bệnh nặng rễ lớn cũng bị thối, cây còi cọc, lá vàng và quả non bị rụng nhiều, cây suy kiệt có thể không hồi phục và chết.
b) Điều kiện phát sinh phát triển
Bệnh phát triển nhanh và nặng ở những vườn có đất xấu, kém chăm sóc.
c) Phòng trừ
- Luân canh cây trồng với bắp, đậu … 2-3 năm.
- Nhổ bỏ và tiêu hủy cây bệnh, xử lý vị trí cây chết bằng dung dịch Bordeaux 1% để hạn chế lây lan.
- Khi bệnh mới phát sinh dùng thuốc phòng trừ bệnh kết hợp với xử lý tuyến trùng trong đất: Ketomium 1.5 x 106 cfu/g bột, Norshield 58WP, Trichoderma spp.
1.7 Tuyến trùng
a) Triệu chứng
- Một số giống tuyến trùng hại phổ biến trên cà phê là: Pratylenchus, Tylenchus, Rotylenchulus, Xiphinema (ngoại ký sinh), Meloidogyne (nội ký sinh)…
- Cây cà phê bị tuyến trùng hại thường bị vàng lá rất rõ vào đầu mùa khô sau khi dứt mưa do rễ cọc bị thối và đứt ngang. Ở cây nhiễm nặng thì rễ tơ cũng bị thối nên cây không được cung cấp đủ nuớc và dinh dưỡng. Do bộ rễ bị phá hủy, cây dễ bị nghiêng ngã khi có gió to và rất dễ nhổ lên.
- Sau khi bị tuyến trùng tấn công, cây cà phê dễ bị các nấm bệnh tấn công gây thối rễ nhanh và làm cây mau chết.
b) Điều kiện phát sinh phát triển
- Tuyến trùng đa số đẻ trứng và biến thái không hoàn toàn, một số ít tuyến trùng đẻ ra con.
- Ngoài tuyến trùng ngoại ký sinh gây thối rễ, cây cà phê còn bị tuyến trùng nội ký sinh Meloidogyne gây nốt sần trên rễ (bệnh bướu rễ). Hai loài tuyến trùng cùng gây hại làm cây càng suy kiệt, mau chết
- Bệnh chủ yếu xuất hiện trên các vườn cà phê trồng lại từ các vườn cà phê già cỗi, tuyến trùng đã tích lũy mật số sau nhiều năm.
c) Phòng trừ
- Bón phân hữu cơ hoai mục, trồng cây vạn thọ xung quanh gốc cà phê hạn chế được tuyến trùng.
- Vườn cà phê phá đi trồng lại cần thu gom hết rễ cây. Sau đó luân canh 2-3 năm cây đậu đỗ, bắp…
- Xử lý hố bằng cách đốt hố, bón phân hữu cơ đầy đủ, 1 kg vôi/hố + thuốc trừ tuyến trùng Oncol 20 EC (pha 40-50 ml/10 lít nước, tưới 4-5 lít/hố) trước khi trồng.
- Khi phát hiện cây bệnh nhổ bỏ cây đã bị thối rễ cọc, đào và phơi hố trong mùa khô, sau đó xử lý hố theo phương pháp như trên trước khi trồng.
- Khi mật độ tuyến trùng cao dùng các loại thuốc sau phòng trừ: Oncol 20 EC, 25 WP, Vimoca 10 G, Nisuzin 10 GR...
2. Sâu hại
2.1 Mọt đục cành (Xyleborus compactus - trước đây gọi là Xyleborus mortatti)
a) Nhận dạng
- Trưởng thành: là một loài thuộc Bộ cánh cứng, kích thước nhỏ dài khoảng 2 cm, đen bóng, đầu gục xuống phía ngực. Trên lưng và cánh cứng có nhiều lông ngắn thưa thớt và nhiều hàng chấm lõm.
- Trứng hình bầu dục, rất nhỏ.
- Sâu non màu trắng đục, không có chân, mình mập, đầu màu nâu nhạt, đẫy sức dài 3 mm sinh sống bằng bào tử một loại nấm ký sinh trong hang.
- Nhộng trần, màu trắng đục, hóa nhộng trong đường đục.
b) Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Gây hại chủ yếu thời kỳ kiến thiết cơ bản, trên những cành bánh tẻ, cành tốt nhiều nhựa chưa hóa gỗ. Mọt đục vào cành tạo thành những đường hang rỗng thẳng dọc cành hướng về phía mặt đất và có thể đục các lỗ ngang để đùn phân. Mọt cái có thể đục nhiều hang nhưng chỉ chọn một hang thích hợp đẻ trứng thành từng ổ khoảng 8-15 trứng. Sau khi vũ hóa vài ngày mọt trưởng thành mới chui ra khỏi tổ và bay đi đục cành cà phê khác.
- Trong một năm có khoảng 15 lứa mọt gối nhau, mọt phá hại mạnh nhất trong các tháng khô hạn. Cành bị hại lá vàng héo, chết khô và gẫy ngang. Gây hại nặng trong các tháng khô hạn.
c) Phòng trừ
- Phát hiện sớm cành bị hại, cắt bỏ cành và đem tiêu hủy để diệt sâu non (thực hiện trong tháng 12-3).
- Tỉa cành vượt tạo thông thoáng trong vườn. Chặt bỏ cây dại xung quanh vườn cà phê để giảm bớt ký chủ của mọt đục cành.
- Tăng cường chăm sóc, tưới đủ ẩm vào mùa khô.
- Khi xuất hiện nhiều trưởng thành dùng các thuốc sau đây để phòng trừ, Pyritox 200EC, (400EC), Sargent 6GR, Sieu Sao E 500WP, Tungcydan 41EC, (55EC, 60EC); Careman 40EC, Diaphos 50EC, Diazol 10GR, (50EW ),Tungmectin 1.9EC
2.2 Sâu đục thân mình trắng (Xylotrechus quadripes)
a) Nhận dạng
- Trưởng thành: là một loài thuộc họ xén tóc, màu đen, có các vệt sáng chạy chéo ngang cánh, thân dài 16-18 mm, màu đen.
- Trứng hình bầu dục dài, màu trắng ngà, dài 1,2 mm
- Sâu non trắng ngà luôn nằm thẳng, không có chân, răng cứng, khỏe.
- Nhộng trần màu vàng, sâu hóa nhộng trong đường đục sát vỏ cây.
b) Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Xén tóc hoạt động nhanh nhẹn, sức bay xa, đẻ trứng vào các vết nứt của vỏ thân cây cà phê.
- Sâu non đục vào vỏ thành đường vòng quanh thân hơi gồ lên, vỏ bị nứt nẻ. Sâu tuổi lớn đục vào phần gỗ và đường sâu đục đến đâu thì đùn phân lấp kín đến đó. Khi đẫy sức sâu đục ra phía gần vỏ để hóa nhộng. Một cây cà phê có thể có nhiều sâu non cùng đục. Cây bị hại lá vàng héo, hoa nở sớm hoặc rụng, quả xanh bị rụng, trái chín không tập trung, cây dễ bị gẫy ngang nơi bị sâu đục.
- Xén tóc phát sinh quanh năm, nhưng có hai đợt phá hại nặng vào tháng 4-6 và tháng 10-12. Các giống cà phê có bộ tán lá che kín thân ít bị hại.
c) Phòng trừ
- Trồng cây che bóng, giảm ánh sáng cho cà phê hạn chế được sự đẻ trứng.
- Kết hợp phun thuốc với quét hỗn hợp thuốc lên thân chính và những cành lớn.
- Thuốc phun: Danitol– S 50EC, Tungcydan 55EC, Diazan 50EC
- Hỗn hợp thuốc quét như sau: thuốc 1 phần (Basudin 50EC) + phân trâu bò 5 phần + đất sét 10 phần + nước 15 phần.
2.3 Sâu đục thân hồng hoặc đỏ (Zeuzera coffea)
a) Nhận dạng
- Trưởng thành: là một loài bướm cánh màu trắng xám, có nhiều chấm nhỏ màu xanh đen óng ánh, thân có nhiều lông trắng.
- Trứng hình bầu dục dài 1 mm.
- Sâu non đẫy sức dài 40 mm màu đỏ vàng hoặc đỏ tươi, trên thân có nhiều lông đen, đầu nhỏ màu đen..
- Nhộng màu nâu đỏ, sâu hóa nhộng trong đường đục.
b) Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Bướm đẻ trứng ở các kẽ nứt của vỏ cây, thân cành cây.
- Sâu non đục thành một đường vòng dưới vỏ cây, sau đó đục lên phía trên ngọn thân và các cành tạo thành đường hầm rồi đùn phân ra ngoài rơi xuống đất như mạt cưa .
- Cành bị sâu đục thường héo và dễ gãy ngang nơi bị hại, sâu tiếp tục sống trong cành khô và hóa nhộng trong đó.
- Chủ yếu phá hại cây cà phê còn nhỏ ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. Thường gây hại trên cành và cả thân chính có đường kính <20mm.
c) Phòng trừ
- Cắt bỏ các cành bị sâu, cưa đốn cây bị hại nặng và tiêu hủy để diệt sâu non, nhộng.
- Phun thuốc vào nơi sâu thích đục lỗ (đầu cành non, chồi non) hoặc bơm thuốc vào lỗ đục , sử dụng thuốc phun, quét như với sâu đục thân mình trắng.
2.4 Mọt đục quả cà phê (Hypothenemus hampei)
a) Nhận dạng
- Trưởng thành: là một loài thuộc Bộ cánh cứng, thân hình ống màu nâu đen. Trên cánh có nhiều gờ nổi chạy dọc theo cánh. Con đực không bay, dài 1,6 mm; con cái bay khỏe, dài 2,5 mm.
- Trứng hình bầu dục rất nhỏ.
- Sâu non không có chân, màu trắng, đầu màu nâu.
- Nhộng trần màu trắng ngà; hóa nhộng trong quả bị hại.
b) Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Con cái đục lỗ ngay bên cạnh núm quả hoặc giữa núm quả chui vào trong phá hại và đẻ trứng hoặc đẻ trứng trong các vết nứt của vỏ quả cà phê.
- Sâu non cắn phá phôi nhũ của hạt.
- Gây hại vào giai đoạn quả cà phê già và chín, làm cho quả rụng, hạt lép hoặc bị rỗng làm giảm sản lượng và chất lượng cà phê.
c) Phòng trừ
- Vệ sinh vườn, thu gom sạch trái rụng và trái khô trên cây
- Sau khi thu hoạch loại bỏ quả bị mọt hoặc luộc trong nước sôi để diệt mọt.
- Khi xuất hiện nhiều trưởng thành dùng các thuốc sau phun ướt đều các cành quả để phòng trừ: Danasu 50EC, Bai 58, Proact 555EC, ...
2.5 Rệp sáp (Pseudococcus mercaptor)
a) Nhận dạng
- Rệp trưởng thành cái hình bầu dục, không cánh, dài 4 mm, thân có phủ lớp sáp trắng, quanh thân có các tia sáp dài trắng xốp. Rệp đực dài 3 mm, có cánh, không có sáp.
- Rệp hầu như không di động, di chuyển từ nơi này sang nơi khác nhờ kiến cộng sinh.
- Trứng hình bầu dục, rất nhỏ, dính với nhau thành ổ tròn, bên ngoài có lông tơ trắng bao phủ.
- Rệp non mới nở có màu hồng, chưa có sáp, chân khá phát triển để di chuyển tìm nơi sống cố định.
b) Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Rệp sáp gây hại quanh năm, nhưng xuất hiện nhiều trong mùa khô. Rệp thường sống tập trung từng đàn gây hại ở nhiều bộ phận của cây như kẽ lá, chồi non, cuống của chùm hoa, chùm quả, gốc cây. Trên chùm hoa và quả, rệp hút nhựa cuống làm hoa, quả khô rụng. Mùa khô rệp còn bò xuống dưới gốc cây, chích hút nhựa ở rễ và gốc làm rễ phát triển kém, cây còi cọc, lá vàng, có thể chết dần. Khi rệp phá hại lâu ngày ở rễ, chúng cộng sinh với nấm Bornetina spp. ở trong đất tạo thành những vùng u lớn bề mặt xù xì màu trắng xám bao quanh các đoạn rễ, bên trong là một đám rệp đủ các lứa tuổi đang bám chặt vào mặt rễ đã bong tróc hết vỏ để chích hút. Các loài tuyến trùng, nấm bệnh cũng theo các vết thương xâm nhập gây tác hại trầm trọng hơn. Khi rễ bị hại nặng cây rất cằn cỗi, lá vàng rồi héo dần và chết do bộ rễ bị phá hủy không còn khả năng hút nước và chất dinh dưỡng nuôi cây.
- Rệp cái đẻ trứng ở các kẽ lá, chùm hoa và quả non.
- Chất bài tiết của rệp là môi trường cho nấm bồ hóng đen phát triển, bám đen cả cành lá và vỏ trái, làm giảm quang hợp và giảm giá trị sản phẩm.
c) Phòng trừ
- Tỉa cành tạo sự thông thoáng cho cây đồng thời với việc cắt bỏ tiêu hủy những cành bị rệp hại nặng, cành sâu bệnh, cành sát mặt đất, cành vô hiệu để giảm nơi sinh sống của rệp.
- Dọn sạch cỏ rác, lá cây mục ở xung quanh gốc để phá vỡ nơi trú ngụ của kiến.
- Cung cấp đầy đủ nước cho cây trong mùa khô. Mùa nắng dùng vòi bơm nước phun vào chỗ có nhiều rệp đeo bám có tác dụng rửa trôi bớt rệp, đồng thời tạo ẩm độ trên cây làm giảm mật số rệp.
- Thường xuyên kiểm tra 10 ngày/lần để phát hiện sự xuất hiện của rệp sáp. Nếu thấy có rệp dù ở mật số thấp cũng phải diệt trừ ngay vì rệp sáp sinh sản rất nhanh.
- Trừ rệp sáp trên lá và quả: cần phun thuốc kỹ để thuốc bám và thấm qua lớp sáp, phải phun thuốc 2 lần cách nhau 7-10 ngày để diệt tiếp lứa rệp non mới nở từ trứng được che ở dưới bụng rệp mẹ. Có thể dùng nước xà bông rửa chén pha 15-20 ml/bình 8 lít phun ướt đều nơi rệp đeo bám rồi ngày hôm sau mới phun thuốc. Các thuốc có thể sử dụng: Andomec 5WP, Tridan 21.8WP, Lorsban 30EC; 40EC
- Rệp dưới gốc: rải thuốc hạt Diaphos 10GR ở gốc rễ (nên tưới ẩm đất một ngày trước xử lý nhằm tạo điều kiện cho thuốc khuyếch tán tiếp xúc tốt với rệp trong đất).
2.6 Rệp muội (Toxoptera auranti và Aphis sp.)
a) Nhận dạng
Rệp muội Toxoptera aurantii màu đen. Rệp muội Aphis sp. màu xanh.
- Trưởng thành: Cơ thể hình bầu dục, kích thước nhỏ. Con đực luôn có cánh, con cái có hai dạng: cánh dài và không cánh. Tuy nhiên trong tự nhiên hầu như chỉ ghi nhận được trưởng thành cái không cánh, sinh sản đơn tính và đẻ con. Rệp có cánh thường chỉ xuất hiện khi mật số rệp quá cao hoặc nguồn thức ăn cạn kiệt.
b) Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Rệp sinh sản đơn tính, đẻ thẳng ra con, một rệp cái trung bình đẻ 50 con.
- Rệp tập trung ở các chồi non, chích hút nhựa làm chồi, búp non, lá non nhỏ và quăn lại, chồi chậm phát triển và biến dạng. Rệp còn tiết chất mật ngọt làm nấm bồ hóng đen phát triển, giảm quang hợp của cây.
- Rệp muội có thể phát triển quanh năm nhưng nhiều nhất là khi cây cà phê ra búp non tập trung và thời tiết nắng nóng.
c) Phòng trừ
- Tỉa cành cho vườn thông thoáng, tiêu hủy những cành suy yếu bị hại nặng.
- Chăm sóc, bón phân cho cây ra đọt non tập trung để dễ phòng trị.
- Bảo vệ thiên địch và nuôi kiến vàng để hạn chế rệp.
- Tưới phun mưa lên cây hạn chế được sự phát triển của rệp.
- Phun vào các chồi non khi mật số rệp cao bằng một trong các thuốc sau: dầu khoáng (DK-Annong Super 909EC, Elsan 50 EC, Vicol 80 EC (96,3 EC, 80EC), Fastac 5EC, Soka 25EC .
Chú ý phun kỹ mặt dưới lá, chồi, búp non nơi rệp sống tập trung và nên luân phiên sử dụng các loại thuốc khác nhau để tránh hiện tượng tái phát.
2.7 Rệp vảy xanh (Coccus viridis)
a) Nhận dạng
- Rệp trưởng thành cái không cánh dài 3 mm, hình bầu dục, không cánh, mình dẹt vỏ mềm, màu xanh, sinh sống cố định một chỗ.
- Rệp non màu xanh vàng, cuối thân có 2 lông dài.
b) Tập quán sinh sống và cách gây hại
- Rệp vảy xanh bám trên lá và cành non, thường ở mặt dưới lá dọc theo gân chính. Rệp hút nhựa làm lá bị vàng, cây sinh trưởng kém.
- Cây cà phê mới trồng năm đầu bị rệp vảy xanh nhiều có thể khô chết.
- Trong quá trình sinh sống, rệp vảy xanh tiết ra chất dịch là môi trường phù hợp cho nấm bồ hóng đen phát triển bao phủ lá, cành, chùm quả và dẫn dụ kiến đến.
c) Phòng trừ
- Một số vườn xuất hiện nấm ký sinh trên rệp vảy, chưa định danh được.
- Vệ sinh vườn sạch sẽ, cắt bỏ các cành vô hiệu và chồi vượt cho cây thông thoáng.
- Khi rệp vảy xanh phát sinh nhiều phun thuốc trừ rệp, chú ý phun ướt đều nơi rệp đeo bám, thuốc sử dụng như rệp sáp, rệp muội.
2.8 Sâu đục vỏ trái (Prays endolemma)
Thường tấn công trái non làm rụng trái hay tạo các ụ lớn trên vỏ trái làm trái bị biến dạng, giảm giá trị sản phẩm.
Phòng trị: Cần theo dõi thu gom các trái rụng đem chôn để trừ ấu trùng đang phát triển trong vỏ trái.
3. Sử dụng thuốc bvtv an toàn và hiệu quả
Khi sử dụng thuốc BVTV để phun rải trên đồng ruộng, thuốc BVTV sẽ tác hại đến dịch hại nhằm hạn chế tác hại của chúng đến cây trồng. Tuy nhiên nếu không có biện pháp sử dụng đúng đắn thì thuốc BVTV không chỉ gây độc hại cho dịch hại mà còn gây tác hại cho người, cây trồng, sinh vật có ích và môi trường sống.
Do vậy, mục tiêu của việc dùng thuốc BVTV để phòng trừ dịch hại phải đảm bảo 2 mặt là:
- Phát huy tác dụng tích cực của thuốc BVTV trong việc đẩy lùi tác hại của dịch hại.
- Hạn chế thấp nhất tác dụng xấu của thuốc BVTV đến con người, cây trồng, sinh vật có ích và môi trường.
Để đạt được mục tiêu trên, khi sử dụng thuốc BVTV phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng và đảm bảo thời gian cách ly.
* Nguyên tắc 4 đúng khi sử dụng thuốc BVTV:
- Đúng thuốc.
- Đúng nồng độ và lượng nước pha thuốc theo hướng dẫn trên nhãn thuốc.
- Đúng lúc.
- Đúng cách.
* Đảm bảo thời gian cách ly của từng loại thuốc BVTV trên mỗi loại cây trồng theo hướng dẫn trên nhãn thuốc.
V. THU HOẠCH – CHẾ BIẾN – BẢO QUẢN
1. Thu hoạch
Khi thu hoạch chỉ nên hái trái cà phê vừa chín vì những trái cà phê quá chín hoặc xanh là nguyên nhân làm cho cà phê mất mùi vị, ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho nấm mốc và độc tố phát triển. Khi thu hái không để hạt cà phê tiếp xúc với đất
Cà phê thu hoạch ngày nào, chế biến ngay ngày đó, không nên ủ quá 24 giờ, làm giảm chất lượng.
2. Chế biến
Có 2 phương pháp:
- Chế biến ướt: Xát tươi loại bỏ phần vỏ, thịt, sau đó lên men hay xát bỏ phần nhớt bám xung quanh vỏ trấu, ngâm rửa rồi đem phơi.
- Chế biến khô: Sau khi thu hoạch đem phơi cả quả, không qua khâu xát tươi.
Cà phê được phơi trên nền xi măng, trên tấm vải nhựa. Phơi từng lớp mỏng (không dày quá 3-4cm) và đảo qua lại thường xuyên.
3. Bảo quản sau thu hoạch
- Chỉ đưa vào bảo quản trong kho khi độ ẩm trong hạt không quá 12,5% để cà phê không bị lên men mốc, không bị mất mùi, không để trực tiếp trên nền đất.
- Dùng bao tải sạch để bảo quản cà phê, trong nhà kho có thông gió tốt và đề phòng nước dột, không để cà phê sát tường. Không dùng bao nhựa để chứa cà phê, chứa cà phê trong bao không quá đầy.